Bước tới nội dung

Cao Ngọc Anh

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cao Ngọc Anh
Chân dung nữ sĩ Cao Ngọc Anh
Chân dung nữ sĩ Cao Ngọc Anh
Sinh22 tháng 12 năm 1878
Nghệ An, An Nam
Mất14 tháng 10, 1970(1970-10-14) (91 tuổi)
Sài Gòn, Việt Nam Cộng hòa
Bút danhNgọc Anh
Nghề nghiệpNhà thơ
Dân tộcKinh
Tư cách công dânViệt Nam

Cao Ngọc Anh (1878-1970) là một nhà thơ Việt Namthế kỷ XX.

Thân thế

[sửa | sửa mã nguồn]

Bà tên thật là Cao Thị Hòa, sinh ngày 22 tháng 12 năm 1878 tại làng Thịnh Mỹ, nay thuộc xã Diễn Thịnh, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Thuở nhỏ, cha bà là Thượng thư bộ Học Cao Xuân Dục có đính ước thông gia với Cử nhân Lê Huy Nghiêm, cha họa sĩ tương lai Lê Văn Miến. Tuy nhiên, về sau ông Lê Văn Miến có gửi thư đề nghị bãi hôn do cảm thấy bất tương gia. Năm 19 tuổi, bà xuất giá lấy ông Nguyễn Duy Nhiếp làm kế thất,[1] tức là về làm dâu quan Phụ chính Đại thần Nguyễn Trọng Hợp triều Thành Thái. Không may chồng mất sớm, bà ở vậy nuôi ba con. Một người anh trai của bà là Cao Xuân Tiếu từng làm đến chức Thượng thư Nhà Nguyễn.

Đóng góp văn học

[sửa | sửa mã nguồn]

Tiếng tăm bà để lại là trong các áng thi văn đủ mọi thể loại bằng chữ Hán lẫn chữ Nôm: tứ tuyệt, thất ngôn, hát nói, văn tếcâu đối. Lời văn của bà trau chuốt, cổ kính, đượm nỗi buồn nhưng cũng có khi hóm hỉnh, được nhiều danh nhân như soạn giả Trần Trọng Kim ca ngợi. Bài văn tế "Khóc mẹ" của bà thì được soạn giả Dương Quảng Hàm chọn là bài văn tế tiêu biểu trong sách Quốc văn diễn nghĩa.

Năm 1953 bà vào Nam. Dù tuổi đã cao, bà cũng tiếp tục hoạt động văn chương trong hội "Quỳnh Giao" quy tụ các nữ sĩ đương thời tại Sài Gòn.

Năm 1961 thời Đệ Nhất Cộng hòa Bộ Thông tin có cho xuất bản tập tác phẩm của bà với tựa Khuê sầu thi thảo. Tập này năm 1964 lại được tái bản. Năm 1999 cuốn này lại được con cháu bà cho in lại ở Canada, lần này có cả phần chữ Nhochữ Nôm do Nguyễn Bá Triệu đảm nhiệm.[2]

Trong sách Hương sắc quê mình của Lãng Nhân chép giai thoại của phụ nữ Việt Nam cổ kim thì bà là một trong số 30 nhân vật được liệt danh.

Bà mất ngày 14 tháng 10 năm 1970 tại Sài Gòn.

Vài bài thơ tiêu biểu

[sửa | sửa mã nguồn]
Con ghẻ (thất ngôn)
Cái ghẻ, mày ơi! Tớ bảo này
Sao mày quanh quẩn mãi chi đây
Trước còn ăn hết làn da mỏng
Sau lại dùi vô tấm thịt dầy
Sâu trắng độc ngầm không kẻ biết
Nước vàng chảy mãi có ai hay?
Nhân ngôn móng chó chưa nhằm mặt
Phải có diêm sinh để trị mày.
Đáp lại những ai cho là ngạo đời (thất ngôn)
Ai bảo là ta tính ngạo đời
Khinh đời vẫn khó, há rằng chơi
Khinh người lắm của còn ham của
Khinh kẻ cao ngôi chẳng xứng ngôi
Khinh gái chung tình, chung cửa miệng
Khinh trai ái quốc, ái đầu môi
Có khinh chăng nữa là khinh thế
Nào dám khinh đâu khắp mọi người.
Nhớ quê hương (hát nói)
Mưỡu: Hỏi ai gây việc chiến tranh
Non sông xẻ nửa gánh tình chia đôi
Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Nhớ quê muôn dặm nhớ người nghìn xưa
Hát nói: Trăng thanh gió mát tựa bên lầu
Ngâm hát một mình chơi
Đầu non xa thoang thoảng hương mai
Niềm tâm sự biết cùng ai giải tỏ
Lâu thượng nhất huỳnh tùy nguyệt độ
Liêm tiền số điểm họa phong ca
Đoái non sông Nùng, Nhị xa xa
Chòm mây trắng ấy nhà ta đó nhỉ
Ai tri kỷ, biết ai là tri kỷ
Trên từng mây lơ lửng chị Hằng Nga
Một trăng với lại một ta!

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Tiểu luận "Nhớ Tú Xương", có đoạn ghi về bà Cao Ngọc Anh”. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2009.
  2. ^ Cao Ngọc Anh. Khuê sầu thi thảo. Ottawa, CAN: Vũ Ngọc Hiến, 1999.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]